Mang làn sóng số đến với bà con vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa để thay đổi cuộc sống của họ. Mục tiêu này đang được Viện Công nghệ thông tin và Truyền thông CDIT theo đuổi hơn 5 năm nay và đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Trước thềm xuân mới Tân Sửu 2021, TĐHNN có dịp được TS. Cao Minh Thắng – Phó Viện trưởng Viện CDIT chia sẻ thêm về những điều tâm huyết trong thời gian tới.
TĐHNN: Để tiến tới nền kinh tế số thì chuyển đổi số (CĐS) cần diễn ra trên nhiều lĩnh vực. Viện CDIT hiện cũng có nhiều giải pháp công nghệ cho CĐS ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhưng dường như lĩnh vực nông nghiệp nông thôn đang là tâm huyết của viện?
TS. Cao Minh Thắng: Theo kết quả tổng điều tra năm 2019, dân số ở khu vực nông thôn Việt Nam là 63.149.249 người, chiếm 65,6%. Con số này cho thấy nông thôn vẫn là nơi tập trung dân cư chính nhưng ít được tiếp cận với các giải pháp số hiện đại.
Bên cạnh đó, Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp lâu đời và nông nghiệp cũng là nền tảng kinh tế xã hội quan trọng của Việt Nam ở bất kỳ giai đoạn nào trong lịch sử.
Ngoài ra, thời gian gần đây, nông nghiệp Việt Nam đã có những bước chuyển mình quan trọng với nhiều mô hình sản xuất quy mô lớn, có quy trình nuôi trồng bài bản, khoa học.
Những phân tích sơ bộ cho thấy nông nghiệp và nông thôn là khu vực đang có nhiều thay đổi nhanh chóng và rất cần các giải pháp CĐS phù hợp.
TĐHNN: Vậy mục tiêu mà CDIT đặt ra là gì, thưa tiến sĩ?
TS. Cao Minh Thắng: Trong kinh nghiệm nông nghiệp của người Việt Nam có câu “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Trong các nhân tố này, “cần” là một yếu tố rất quan trọng. “Cần” là cần cù, chăm chỉ trong lao động chân tay và trí óc. Nông nghiệp hiện đại không chỉ cần những con người chỉ biết một nắng hai sương mà còn cần những nhà nông thông thái, chịu khó học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu kiến thức khoa học, kĩ thuật,… và đặc biệt là chuyên nghiệp trong sản xuất.
Thực tế cũng cho thấy, chỉ có tuân thủ chặt chẽ quy trình thì năng suất chất lượng nông sản mới được đảm bảo, đặc biệt là với các tiêu chuẩn khắt khe của các thị trường quốc tế. Đây cũng là một vấn đề khó, không chỉ là vấn đề công nghệ mà cả ở ý thức chuyên nghiệp của nguồn nhân lực, vốn không phải thế mạnh của lao động trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam.
Điểm mấu chốt trong sự chuyên nghiệp là ý thức tuân thủ các quy trình sản xuất, trong đó có rất nhiều chi tiết nhỏ, lặp đi lặp lại cũng như các rủi ro cần phát hiện sớm xử lý kịp thời trong mỗi vụ sản xuất. Sự chi tiết này càng phức tạp khi quy mô sản xuất lớn, nhiều mùa vụ, nhiều loại nông sản và đặc biệt khi lượng nhân công tham gia lớn. Khi đó, nhà quản lý sẽ gặp phải thách thức rất lớn là làm sao kiểm soát được chặt chẽ và đánh giá chính xác nhân viên cũng như phát hiện sớm các bất thường từ đó hạn chế các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình sản xuất.
Mục tiêu trong các hướng nghiên cứu hiện nay của Viện công nghệ Thông tin và Truyền thông CDIT hiện nay đưa ra giải pháp giúp nhà quản lý nông nghiệp giải quyết được vấn đề rắc rối này.
TĐHNN: Đến nay Viện CDIT đã có những giải pháp công nghệ nào phục vụ cho CĐS khu vực nông thôn?
TS. Cao Minh Thắng: Giải pháp được triển khai rộng rãi nhất hiện nay của Viện CDIT là giải pháp ghi chỉ số đồng hồ nước ezWater (https://ezwater.vn/). Đây là giải pháp rất hữu ích cho các nhà máy nước tại các địa bàn nông thôn, giúp rút ngắn thời gian, giảm chi phí nhân công và tăng độ chính xác khi ghi chỉ số đồng hồ nước. Tính đến tháng 12 năm 2020, ezWater đã được triển khai trên địa bàn 17 tỉnh với khoảng hơn 400.000 đồng hồ.
Giải pháp thứ hai là giải pháp hỗ trợ truy xuất nguồn gốc sản phẩm hàng hoá ezCheck (http://ezCheck.vn). Giải pháp này được rất nhiều doanh nghiệp và nhà phân phối nông sản sử dụng để chứng minh nguồn gốc xuất xứ các mặt hàng. Trung bình hàng năm có đến hàng triệu sản phẩm đã được tem nhãn truy xuất nguồn gốc ezCheck.
TĐHNN: Lợi ích của CĐS thì đã rõ. Theo tiến sĩ, những nội dung nào có thể triển khai CĐS ở khu vực nông thôn Việt Nam hiện nay để mang lại hiệu quả cho người dân?
TS. Cao Minh Thắng: Có thể nói CĐS đã đem lại sự thay đổi rất lớn với đời sống kinh tế xã hội các vùng nông thôn. Hiệu quả nhất đầu tiên phải kể đến đó là các giải pháp truyền thông số giúp người dân có thể kết nối với thế giới để quảng bá, giao dịch các sản phẩm hàng hoá, văn hoá và du lịch và cũng từ đó tiếp thu các tiến bộ của cộng đồng. Tiếp đó là các giải pháp giúp quản lý công việc sản xuất trong một số lĩnh vực đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao để nâng cao năng suất, chất lượng nông sản. Ngoài ra, các giải pháp liên quan đến thủ tục hành chính, doanh nghiệp,… cũng rất cần thiết để đẩy nhanh tốc độ phát triển của khu vực này.
TĐHNN: Tiến sĩ nhìn thấy thách thức nào khi triển khai các giải pháp CĐS cho khu vực nông nghiệp nông thôn?
TS. Cao Minh Thắng: Thách thức lớn nhất để triển khai các giải pháp CĐS trong nông nghiệp và nông thôn chính ý thức và trình độ của các tổ chức sản xuất. Với đa phần các tổ chức nhỏ, nhận thức về tầm quan trọng của CĐS chưa thực sự tốt. Bên cạnh đó, với trình độ sản xuất còn hạn chế, mức độ tự động hoá thấp cũng khá khó khăn khi áp dụng các giải pháp CĐS. Ngoài ra, chi phí triển khai CĐS cũng là một vấn đề quan trọng với các tổ chức vừa và nhỏ, đặc biệt là ở giai đoạn mới hình thành và các thời điểm khó khăn về thị trường đầu ra.
TĐHNN: Vậy với vai trò là người tham gia quản lý ở viện nghiên cứu chuyên ngành, tiến sĩ thấy các viện, tổ chức KHCN cần được Nhà nước hỗ trợ cơ chế chính sách như thế nào để tham gia hiệu quả vào quá trình CĐS quốc gia?
TS. Cao Minh Thắng: Như một nhu cầu tất yếu, các tổ chức KHCN luôn cần sự hỗ trợ của Nhà nước các nguồn lực để nghiên cứu và phát triển các giải pháp CĐS.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần có các hỗ trợ để kết nối giữa các tổ chức KHCN với các đối tượng CĐS thông qua các hoạt động truyền thông, marketing và thậm chí là các chi phí hỗ trợ sử dụng giải pháp CĐS cho các tổ chức vừa nhỏ ở giai đoạn ban đầu khi mới thành lập và các thời điểm khủng hoảng kinh tế.
Cảm ơn những chia sẻ đầu năm của tiến sĩ và chúc CDIT sẽ thực hiện được nhiều tâm huyết của mình!
Hữu Cao