Các trường hợp nhiễm SARS-CoV-2 biến thể Omicron đã leo thang trên toàn cầu trong hai tháng qua, với nhiều quốc gia có mức đỉnh cao hơn các biến thể trước đó.
Vi rút RNA như SARS-CoV-2 mắc rất nhiều lỗi khi chúng sinh sản, nó không thể sửa chữa những sai lầm này nên có tỷ lệ sai sót hoặc đột biến tương đối cao và không ngừng phát triển. Khi mã di truyền của vi rút thay đổi do kết quả của những đột biến này, nó được gọi là một biến thể.
Omicron là một biến thể “rất khác biệt” đã tích lũy hơn 30 đột biến trong protein đột biến, điều này đã làm giảm khả năng bảo vệ của các kháng thể khỏi cả nhiễm trùng và tiêm chủng trước đó và cũng tăng khả năng lây truyền.
Nếu những thay đổi trong mã di truyền được cho là có khả năng tác động đến các đặc tính của vi rút khiến nó có hại hơn và có khả năng lây truyền cao ở nhiều quốc gia.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã phân loại Omicron là một biến thể đáng lo ngại vào ngày 26 tháng 11 vì khả năng gây ra tỷ lệ tái nhiễm cao hơn, tăng khả năng lây truyền và giảm khả năng bảo vệ của vắc xin.
Biến thể Omicron bao gồm ba dòng phụ: B.1.1.529 hoặc BA.1, BA.2 và BA.3. Trong khi WHO chưa đưa ra phân loại riêng biệt cho BA.2, Vương quốc Anh đã dán nhãn BA.2 là một biến thể “đang được điều tra”.
Trong khi các trường hợp đầu tiên của BA.2 được phát hiện từ Philippines và hiện đã thấy hàng nghìn trường hợp ở Hoa Kỳ, Anh, một số ở Úc và nguồn gốc của nó vẫn chưa được xác định. Các đặc tính chính xác của BA.2 vẫn đang được điều tra, mặc dù không có bằng chứng cho đến nay rằng nó gây ra bệnh nặng hơn nhưng các nhà khoa học vẫn có một số lo ngại.
Một dấu hiệu giúp phân biệt Omicron (BA.1) với các biến thể SARS-CoV-2 khác trong các xét nghiệm PCR là sự vắng mặt của gen S, được gọi là “lỗi đích gen S”, nhưng đây không phải là trường hợp của BA.2. Việc không thể phát hiện ra dòng dõi này theo cách này đã khiến một số người gán cho nó là “biến thể phụ tàng hình”.
Một nghiên cứu sơ bộ từ Đan Mạch BA.2 đã thay thế phần lớn BA.1, cho thấy BA.2 làm tăng khả năng nhiễm bệnh của những người không được tiêm chủng hơn hai lần so với BA.1. Nghiên cứu đã kiểm tra hơn 2.000 trường hợp hộ gia đình chính của BA.2 để xác định số trường hợp phát sinh trong thời gian theo dõi bảy ngày.
Các nhà nghiên cứu cũng ước tính tỷ lệ tấn công thứ cấp (về cơ bản, xác suất lây nhiễm) là 29% đối với các hộ gia đình bị nhiễm BA.1 so với 39% đối với những hộ bị nhiễm BA.2. Biến thể mới, biến thể phụ và dòng dõi tiếp tục xuất hiện với mức độ lây truyền cao, vi rút có rất nhiều cơ hội để sinh sản và các lỗi hoặc đột biến tiếp tục phát sinh. Cách để giải quyết vấn đề này là cố gắng làm chậm quá trình truyền và giảm nhóm máy chủ nhạy cảm trong đó vi rút có thể tự do nhân bản.
Các chiến lược như dãn cách xã hội và đeo khẩu trang cũng như tăng tỷ lệ tiêm chủng trên toàn cầu sẽ làm chậm sự xuất hiện của các biến thể và dòng dõi mới.
Trang Nguyễn